Banner tin tức
Những Danh Nhân Tuổi Thìn Nổi Tiếng Trong Lịch Sử Việt Nam
02/04/2023
738 lượt xem
Trong tử vi phương Đông, Rồng là biểu tượng tham vọng và thống trị. Loài vật tưởng tượng này cũng linh thiêng và được kính trọng nhất trong số mười hai con giáp. Do đó, những người sinh vào năm Thìn cũng được cho rằng luôn tràn đầy năng lượng và sức mạnh, dễ đạt được giàu có và quyền lực.

Chu Văn An (1292 – 1370)

Chu Văn An (1292/1370), tên thật là Chu An, hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, là một nhà giáo, thầy thuốc, quan viên Đại Việt cuối thời Trần, "danh nhân văn hóa thế giới". Sau khi mất, ông được vua Trần truy phong tước Văn Trinh công nên đời sau quen gọi là Chu Văn An hay Chu Văn Trinh. Ông được Đại Việt sử ký toàn thư đánh giá là ông tổ của các nhà nho nước Việt.
Ông được coi là người thầy của mọi thời đại, nhà giáo lỗi lạc của Việt Nam, đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp dạy học, với triết lý giáo dục nhân văn, không phân biệt giàu nghèo, học đi đôi với thực hành, học suốt đời để biết, để làm việc và cống hiến cho xã hội. Tư tưởng đó của ông không những có ảnh hưởng tới nhiều thế hệ người Việt Nam mà còn góp phần phát triển các giá trị nhân văn trong khu vực. Quan điểm giáo dục của ông có những giá trị tiến bộ vượt thời đại, gần gũi với mục đích giáo dục của thế giới hiện nay.

Mạc Đĩnh Chi (1280 – 1350)

Mạc Đĩnh Chi (chữ Hán: 莫挺之 1272 - 1346), tên tự là Tiết Phu (節夫), hiệu là Tích Am (僻庵) là một quan đại thần và nhà ngoại giao nổi tiếng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Năm 1304, đời vua Trần Anh Tông niên hiệu Hưng Long thứ 12, ông thi đỗ trạng nguyên. Nhờ thông minh, hiểu biết sâu rộng, ông nhiều lần được cử đi sứ sang Trung Quốc. Ngoài ra, ông còn được biết đến như là tổ tiên trực hệ của các đời Hoàng đế nhà Mạc, được Mạc Thái Tổ truy tôn miếu hiệu là Viễn Tổ (遠祖), thụy là Kiến Thủy Khâm Minh Văn Hoàng Đế (建始欽明文皇帝).

Nguyễn Hữu Dật (1604 – 1681)

Nguyễn Hữu Dật (chữ Hán: 阮有鎰, 1603–1681) là đại công thần của chúa Nguyễn tại Đàng Trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh. Ông là người có công phò tá nhiều đời chúa Nguyễn, đánh lui nhiều cuộc Nam tiến của chúa Trịnh, giữ vững lãnh thổ Đàng Trong, được phong chức Chiêu Vũ hầu. Sau khi mất, ông được nhân dân ở Quảng Bình tiếc nhớ, gọi là Bồ Tát, lập đền thờ ở Thạch Xá Xạ.

Phan Thanh Giản (1798 – 1867)

Phan Thanh Giản (chữ Hán: 潘清簡; 1796–1867), tự Tĩnh Bá (靖伯), Đạm Như (淡如), hiệu Mai Xuyên (梅川), Lương Khê (梁溪); là một quan đại thần triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam, người đã đàm phán và chấp thuận cắt 3 tỉnh Nam Kỳ cho thực dân Pháp.
Tổ phụ của ông là Phan Thanh Tập (có nơi chép là Chỉnh), hiệu Ngẫu Cừ, vốn là người Bách Việt đời nhà Minh. Khi nhà Minh bị quân Mãn Thanh tràn sang và chiếm được. Gia đình họ Phan cũng như những người không tùng phục nhà Thanh trốn sang Việt Nam, ở tỉnh Bình Định, tổng Trung An, làng Hội Trung. Ở đây, Phan Thanh Tập cưới Huỳnh Thị Học, sinh ra Phan Thanh Ngạn. Năm Tân Mão (1771) nhà Tây Sơn dấy binh nổi dậy chống lại triều đình, Phan Thanh Tập dắt gia quyến vào Nam.

Nguyễn Thiện Thuật (1844 – 1926)

Nguyễn Thiện Thuật sinh ngày 23 tháng 3 năm 1844, quê làng Xuân Dục huyện Đường Hào (nay là làng Xuân Đào, xã Xuân Dục, thị xã Mỹ Hào tỉnh Hưng Yên), là con cả của một gia đình nhà nho nghèo, thuộc dòng họ hậu duệ của Nguyễn Trãi.[1] Cha ông là tú tài Nguyễn Tuy làm nghề dạy học, các em trai ông là Nguyễn Thiện Dương và Nguyễn Thiện Kế sau này cũng đều tham gia khởi nghĩa Bãi Sậy.
 
Năm 1874, khi đã đỗ Tú tài, ông được cử làm Bang biện do có công đánh giặc ở Kinh Môn tỉnh Hải Dương. Năm (Bính Tý) 1876 ông tiếp tục dự kỳ thi Nho học nhưng chỉ đậu cử nhân, cùng khoa thi này Phan Đình Phùng vào năm sau đỗ Đình nguyên Tiến sĩ. Sau đó Nguyễn Thiện Thuật được thăng chức Tri phủ ở Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh. Rồi ông được bổ nhiệm giữ chức Tán tương quân vụ tỉnh Hải Dương. Năm 1881 ông giữ chức Chánh sứ sơn phòng tỉnh Hưng Hóa kiêm chức Tán tương quân vụ tỉnh Sơn Tây. Khi Pháp đánh chiếm Bắc Kỳ lần thứ hai năm 1882-1883, Nguyễn Thiện Thuật đã kháng lệnh triều đình nhà Nguyễn, quyết tâm đánh Pháp.

Nguyễn Thái Học (1904 – 1930)

Nguyễn Thái Học sinh năm Giáp Thìn 1904, quê làng Tổng Tang, Vĩnh Tường, Vĩnh phúc. Lúc bé học chữ Hán ở nhà rồi học trường Pháp – Việt tỉnh Vĩnh Yên. Năm 1926 khi đang học trường Cao đẳng Thương mại ông đã nhiều lần gửi yêu cầu của mình lên chính quyền Pháp nhưng đều không được chấp nhận, năm 1927 lập ra tổ chức cách mạng Việt Nam Quốc dân đảng với mục đích “liên lạc tất cả anh em đồng chí không phân biệt giai cấp tôn giáo, dùng võ lực để lấy lại quyền độc lập cho nước Việt Nam”, lập một chính phủ cộng hòa theo chủ nghĩa dân chủ xã hội. Năm 1930 tổ chức cuộc khởi nghĩa Yên Bái nhưng thất bại, ông bị thực dân pháp xử tử cùng 12 đồng chí vào ngày 17-6-1930. Trước lúc hi sinh ông đã tuyên bố “không thành công thì cũng thành nhân” quả thực như vậy, mặc dù cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng đã có một tiếng vang rất lớn, tên tuổi của ông đã được ghi danh sử sách.

Trần Phú (1904 – 1931)

Đồng chí Trần Phú sinh ngày 1/5/1904, quê ở xã Việt Yên, nay là xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh - Một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, cách mạng. Thân sinh của đồng chí là cụ Trần Văn Phổ và cụ Hoàng Thị Cát.
Mồ côi cha khi mới hơn 4 tuổi, Trần Phú sớm có ý thức tự lập, vượt khó để vươn lên trong học tập theo tấm gương của cha, mẹ. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, Trần Phú đã dồn hết tâm trí cho học tập, tham gia "Hội Tu tiến" để giúp đỡ bạn bè cùng chí hướng và nuôi dưỡng tinh thần yêu nước. Sau khi đỗ đầu kỳ thi thành chung ở Huế vào năm 1922 Trần Phú được bổ nhiệm làm giáo viên Trường tiểu học Cao Xuân Dục tại Vinh. Trong những năm làm giáo viên ở Vinh, Trần Phú nổi tiếng là một giáo viên dạy giỏi, yêu trò, đoàn kết các Đồng nghiệp, khơi dậy trong thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê hương và lòng căm thù giặc sâu sắc. Đồng chí đã tiếp nhận những tư tưởng yêu nước và cách mạng của Nguyễn Ái Quốc qua sách báo truyền vào Việt Nam lục đó. Tại Vinh, Trần Phú đã tham gia sáng lập Hội Phục Việt (sau đổi là Hội Hưng Nam), lãnh đạo phong trào làm đơn lấy chữ ký đòi thực dân Pháp trả lại tự do cho Phan Bội Châu tổ chức lễ truy điệu Phan Chu Trinh, mở các lớp dạy quốc ngữ cho quần chúng lao động.

Nên tặng quà gì cho người tuổi Thìn

Các vật phẩm phong thuỷ phù hợp sẽ giúp cuộc sống chúng ta trở nên tốt đẹp, gặp nhiều may mắn và tài lộc dồi dào. Vậy người tuổi Mão phù hợp với vật phẩm phong thuỷ nào? Nên mùa quà tết nào để tặng người tuổi Giáp Thìn 2024
Theo quan niệm của phong thủy ngũ hành, những người tuổi Thìn, những người này thuộc mệnh Kim nên rất hợp với màu vàng, nâu và trắng. Đặc biệt năm nay là Rồng là linh vật đại diện của năm, nên có thể tặng Tượng rồng mạ vàng
 
Bởi vì, tượng rồng mạ vàng không chỉ có vai trò giá trị thẩm mỹ trang trí cho căn phòng, là phụ kiện, trang sức mà nó còn có khả năng chiêu tài, hóa sát.
 
Trên đây là những thông tin về danh nhân, doanh nhân hay người nổi tiếng tuổi Thìn nói chung. Hi vọng những kiến thức bổ ích sẽ giúp bạn trong cuộc sống, công việc.
 
 

Tuyển tập những bài thơ tình Thuyền và Biển thật hay, lãng mạn với nhiều tâm trạng & cảm xúc.
Truyền thuyết về nữ thần Rắn Medusa
Tuyển Tập Những Bài Thơ Hay Về Cố Nhân Xưa
Thuận buồm xuôi gió có nghĩa là gì ?
Mô hình Thuyền buồm phong thủy - Tài lộc may mắn bình an
Tranh hoa sen phong thủy là gì ? Hướng dẫn cách treo tranh hoa sen hợp phong thủy
Ý nghĩa cây lúa trong phong thủy - Hình tượng may mắn tài lộc
Cây Kim Ngân phong thủy mạ vàng - Biểu tượng phú quý