TẠI SAO LONG MẠCH QUAN TRUNG LẠI KẾT THÚC Ở LÝ TỰ THÀNH
Khi mọi người bàn luận về lịch sử thống nhất thiên hạ của Tần Thủy Hoàng, câu hỏi vì sao nước Tần trở thành kẻ chiến thắng cuối cùng luôn là chủ đề được các bậc thầy thành công học hay những người trung niên say rượu trên bàn ăn say sưa bàn tán. Câu trả lời có thể nằm ở câu nói của Giả Nghị đời Tây Hán trong Quá Tần Luận là:
Phát huy uy thế của sáu đời trước, vung roi dài mà cai trị thiên hạ, cũng có người cho rằng đó là nhờ hệ thống bóc lột và huy động cực hạn được thiết lập từ biến pháp Thương Ưởng, thậm chí có người còn coi chiến thắng của nước Tần là do vận khí triều đại, sự phân liệt của nước Tấn, hay sự giao thoa văn hóa vũ đức từ nội Á...
Nhưng dù là truyền thuyết Phượng minh Kỳ Sơn của người Chu cổ đại trước thời Tần, hay Hán Cao Tổ tranh hùng thiên hạ, hay Bắc Chu, Tùy, Đường đoạt ngôi thiên tử, thì khởi điểm chinh phạt bốn phương của họ đều là vùng Quan Trung nơi nước Tần tọa lạc. Vùng đất Quan Trung này rốt cuộc có ma lực gì, liệu nó có ảnh hưởng đến sự thống nhất thiên hạ của nước Tần không, và tại sao nó lại trở thành cái nôi đế vương của biết bao hào kiệt thiên hạ.
Dưới ảnh hưởng của các tác phẩm văn nghệ, ấn tượng của công chúng về nước Tần thường tập trung vào biến pháp Thương Ưởng và quá trình thôn tính sáu nước, nhưng chặng đường hơn một trăm năm bão táp ấy chỉ là một phần nhỏ trong lịch sử nước Tần.

Ngay từ thời Xuân Thu, trong cục diện tranh bá giữa hai cường quốc Tấn và Sở, nước Tần cũng giống như nước Tề lúc bấy giờ, trở thành một trong hai cường quốc chỉ đứng sau Tấn và Sở. Trong giai đoạn này, đã có sự can thiệp vũ trang của Tần Mục Công đưa Tấn Văn Công lên ngôi, có cuộc chinh phạt quân sự của nước Tần thôn tính nước Lương chiếm trọn đất Hà Tây, và cả viễn chinh quân đội của Tần Ai Công giúp nước Sở phục quốc.
Nhưng khác với nước Tề, nước Tần thời Xuân Thu thể hiện một sự ổn định cực kỳ mạnh mẽ trong các cuộc chiến tranh bá chủ giữa chư hầu Trung Nguyên. Ví dụ, cùng là xung đột với nước Tấn, nước Tề trong trận Bình Âm bị liên quân chư hầu do Tấn tập hợp đánh vào lãnh thổ, gây ra hỗn loạn lớn về kinh tế và chính trị, trong khi nước Tần sau khi chiếm Hà Tây, xung đột vũ trang với Tấn chỉ tập trung dọc sông Hoàng Hà.
Đến thời kỳ giao thoa giữa Xuân Thu và Chiến Quốc, ngay cả khi nội bộ nước Tần trải qua giai đoạn chính trị bất ổn với bốn đời loạn chính, so với những biến động lớn mà các nước từng bá chủ thời Xuân Thu như Tấn, Tề, Sở phải đối mặt, Tam gia phân Tấn, Điền thị thay Tề, hay Sở Chiêu Vương phục quốc thì tình hình nước Tần vẫn được xem là tương đối ổn định.
Trong thời Chiến Quốc, ngoại trừ chiến tranh Hà Tây vào giai đoạn đầu, khi nước Tần đối mặt với mối đe dọa lớn từ nước Ngụy, nước tiên phong trong cải cách biến pháp, giành lợi thế tiên phong phá vỡ phòng tuyến Hoàng Hà và chiếm đóng Hà Tây, thì phần lớn thời gian còn lại, nước Tần gần như luôn duy trì được sự an toàn tương đối ở vùng lõi.
Trạng thái ổn định lâu dài khác thường này khiến Giả Nghị đời Tây Hán trong Quá Tần Luận nhận định rằng, từ thời Tần Mục Công trở đi, nước Tần hơn hai mươi đời quân chủ, thường xuyên giữ vị thế hùng mạnh bậc nhất chư hầu. So sánh với các nước chư hầu đương thời như Tề, Ngụy, Yên dù từng có thời quốc lực áp đảo, hoặc hoàn cảnh ngoại giao tương đồng thì việc nước Tần duy trì ổn định trong một thời gian dài như vậy không thể đơn giản giải thích chỉ bằng chế độ nào đó hay việc dân chúng có thiện chiến hay không.
Trong nhận thức của nhiều người, Quan Trung là vùng đất trù phú được bảo vệ lâu dài bởi ải Đồng Quan hoặc Hàm Cốc Quan, nhận định này tuy không sai, nhưng chưa phản ánh đầy đủ những đặc thù của vùng đất này.
Đồng bằng Quan Trung bị kẹp giữa hai dải Tần Lĩnh ở phía nam và cao nguyên Hoàng Thổ ở phía bắc, phía tây lại có núi Lũng sơn chắn ngang. Về phía đông, dù cùng thuộc hệ thống đồng bằng Phần Vị với thung lũng sông Phần, nơi đây tuy không có núi đồi ngăn cách, nhưng hai vùng lại bị chia cắt bởi dòng Hoàng Hà cuồn cuộn cùng hai chi lưu là Lạc Thủy và Kinh Thủy. Trong trận Hà Tây, sau khi quân Ngụy vượt Hoàng Hà chiếm đóng vùng Hà Tây, họ cũng phải dừng chân bên bờ Lạc Thủy, giằng co với quân Tần qua dòng nước.

Hướng về phía Trung Nguyên, dãy Trung Điều Sơn và Hào Sơn cùng hợp thành con đường hiểm yếu Hào Hàm. Chính tại dải đất hẹp này, nước Tần đã xây dựng ải Hàm Cốc trứ danh, một trọng trấn quân sự lợi hại. Đoạn sông Hoàng Hà chảy qua đây còn có khúc Tam Môn Hiệp nổi tiếng với dòng chảy xiết và thế đá Trụ giữa dòng.
Thế hiểm yếu một người giữ, vạn người khó qua của ải Hàm Cốc đã trở thành bức tường quân sự vững chắc giúp nước Tần duy trì thế Hào Hàm chi cố suốt thời Chiến Quốc. Trong khi đó, dòng chảy hung dữ ở Tam Môn Hiệp khiến quân đội các nước Trung Nguyên không thể ngược dòng vận chuyển hậu cần.
Điều này giải thích vì sao khi các nước phương Đông hợp sức chống Tần trong thế hợp tung, họ không thể nhanh chóng đánh bại nước Tần như từng làm với nước Tề, mà chỉ kết thúc trong những thất bại chóng vánh trên con đường Hào Hàm. Ngược lại, nhờ lợi thế địa lý bảo vệ vùng lõi an toàn, nước Tần vừa duy trì được sự ổn định chính trị nội bộ, vừa giữ được thế chủ động quân sự trong các cuộc chiến lâu dài với chư hầu phương Đông.
Tuy nhiên, những rào cản quân sự vẫn chưa phải là tất cả những gì đồng bằng Quan Trung ban tặng. Do đặc điểm địa chất và thổ nhưỡng, khả năng trữ nước và dẫn nước trên bề mặt của đồng bằng Quan Trung nhìn chung khá yếu, điều này đã mang lại cho vùng đất này tình trạng tương đối khan hiếm nước mặt và nhiều đất nhiễm mặn. Thảm thực vật bề mặt chủ yếu là đồng cỏ, lý giải vì sao từ thời Tây Chu đến Xuân Thu, đồng bằng Quan Trung vẫn là khu vực xen kẽ giữa du mục và nông canh.
Mặc dù đặc điểm này khiến người Tần trong mắt các chư hầu khác mang thân phận tiêu cực của người Khương, đồng thời dã nhân mà nước Tần đối mặt trong thời Xuân Thu cũng hung hãn hơn, nhưng so với hệ thống hồ đầm chằng chịt ở Hoa Bắc, chi phí khai hoang tại Quan Trung về vốn, kỹ thuật và nhân lực đều thấp hơn nhiều.
Điều này khiến nơi đây tự nhiên thích ứng với mô hình kinh tế tiểu nông hoạt động theo đơn vị hộ gia đình nhỏ. Đến mức Chu Kỷ, sứ giả nước Hàn khi đi sứ nước Ngụy đã từng nhận xét người Tần ham lợi bất tín, không đoái hoài đến thân tộc huynh đệ.
Bỏ qua vấn đề đạo đức của mô hình tiểu nông hay ảnh hưởng tiêu cực của thổ nhưỡng Quan Trung đến năng suất nông nghiệp, có một điều không thể phủ nhận là nền kinh tế tiểu nông ổn định trên quy mô lớn đã giúp giảm thiểu đáng kể sức phản kháng của dân chúng trước các chính sách điều động nhân lực, vật tư của chính quyền. Đây chính là lý do tại sao cùng trải qua biến pháp, nhưng chỉ có nước Tần duy trì lâu dài được chế độ quân chủ tập quyền do Thương Ưởng thiết lập.
Những chính sách khuyến khích canh tác và chiến đấu trong cải cách Thương Ưởng ngược lại đã củng cố nền kinh tế tiểu nông của nước Tần, trở thành hiện thực của câu có cỏ ắt khai khẩn được nhắc đi nhắc lại trong thiên Khẩn lệnh của Thương Quân thư. Trải qua hàng nghìn năm sau khi Tần thống nhất, mô hình tiểu nông Quan Trung vẫn bám trụ dai dẳng trên mảnh đất này, sinh ra lớp lương gia tử thời Hán và phủ binh đời Tùy Đường sau này.
Ngay cả khi bước vào thời kỳ Dân quốc, đối mặt với sự xâm lấn của kinh tế hàng hóa cùng thiên tai nhân họa triền miên, tiểu nông Quan Trung vẫn duy trì được sự ổn định khác thường. Đến mức thời kỳ cải cách ruộng đất, do số lượng địa chủ ít ỏi và diện tích đất nắm giữ không đáng kể, đã xuất hiện câu nói Quan Trung vô địa chủ.
Núi non sông ngòi bao quanh Quan Trung tựa như tấm khiên, còn nền kinh tế tiểu nông ổn định thịnh vượng là ngọn giáo, giúp vùng đất này có thể bộc lộ tiềm lực kinh tế quân sự dời non lấp biển khi Trung Nguyên rơi vào hỗn loạn. Thế nhưng chính những khiên và giáo đáng tự hào ấy lại trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển lâu dài của Quan Trung.
Đặc tính thổ nhưỡng đồng bằng Quan Trung tuy nuôi dưỡng nền kinh tế tiểu nông ổn định, nhưng cũng dẫn đến các vấn nạn như thoái hóa thực vật dễ dàng, xói mòn đất, nhiễm mặn đất trồng. Khi chưa có giống cây trồng năng suất cao hay đột phá kỹ thuật nông nghiệp, điều kiện địa chất nơi đây đã khóa chặt trần phát triển nông nghiệp.
Thậm chí ngay khi Tần vương Doanh Chính lên ngôi, nội bộ nước Tần liên tục xảy ra nạn đói quy mô lớn. Có lẽ chính những trận đói triền miên ấy đã buộc nước Tần phải đẩy nhanh thôn tính lục quốc để lợi dụng nguồn lương thực các vùng này, giải quyết cuộc khủng hoảng lương thực nội tại.
Nhu cầu lương thực này khiến cho dù là Tần Hán hay Tùy Đường, sau khi hoàn thành thống nhất, các đế quốc đại nhất thống mới thành lập theo quán tính chính trị vẫn đặt kinh đô ở Quan Trung. Hậu quả là dân số khổng lồ từ trung tâm chính trị, bao gồm bộ máy hành chính và quân đội đã vượt quá xa sản lượng lương thực bản địa.
Ví dụ như thời Tây Hán, để đáp ứng nhu cầu kinh đô, triều đình buộc phải mỗi năm chuyển bốn triệu hộc thóc từ Quan Đông về cung ứng cho kinh sư. Đến thời Tùy Đường, dù vận chuyển lương thực liên tục nhưng vẫn xảy ra tình huống khó xử khi hoàng gia cùng triều đình phải dời sang Lạc Dương.
Nhưng cũng giống như eo đất Hào Hàm và Tam Môn Hiệp ở phía đông Quan Trung từng chặn đứng liên quân chư hầu, hai tường thành thiên nhiên này đã khóa chặt con đường phát triển của Quan Trung thời cổ đại. Khi hệ thống kênh đào lớn bắt đầu được xây dựng từ thời Tùy, những vùng đất dọc theo con kênh nối liền đông tây và nam bắc đã trở thành trung tâm chính trị kinh tế mới của Trung Quốc cổ đại.
Vốn đã nằm lệch khỏi tuyến kênh đào, lại thêm địa hình hiểm trở phía đông khiến giao thông vận tải khó khăn, Quan Trung dần trở thành một vùng đất tương đối biệt lập về kinh tế, và cuối cùng đã bỏ lỡ cơ hội hưởng lợi từ làn sóng phát triển thương mại và đô thị hóa nhờ kênh đào bắt đầu từ thời Tống. Cùng với sự suy giảm dần của Quan Trung, đến thời Minh Thanh, dù vẫn có những thành phố quan trọng như Tây An, nhưng cả về sản lượng nông nghiệp lẫn thủ công nghiệp địa phương, nơi đây đều không thể so sánh với các khu vực phía đông như Hà Nam hay Sơn Đông.
Cùng với sự dịch chuyển của trung tâm kinh tế và chính trị, sự phát triển quân sự cũng không ngừng biến đổi. Khi thời đại hỏa khí đến gần, chiến tranh dần chuyển từ mưu lược và dũng khí sang những cuộc chạm trán giữa các hệ thống quân sự được hậu thuẫn bởi ngân khố quốc gia. Và từ đây, câu chuyện về Quan Trung cuối cùng cũng đón nhận khúc ngoặt cuối cùng.
Năm Sùng Trinh thứ mười bảy, chính quyền Đại Thuận của Lý Tự Thành sau hơn ba tháng chinh chiến, cuối cùng đã cắm lá cờ xanh của mình lên tường thành kinh đô Bắc Kinh của Đại Minh. Nếu thời gian dừng lại ở khoảnh khắc này, chiến thắng của Đại Thuận sẽ là một lần tái diễn của điềm lành Phượng hót Kỳ Sơn hay nhà Tùy thống nhất thiên hạ.
Nhưng chỉ một tháng ngắn ngủi sau, chính quyền Đại Thuận đang ở đỉnh cao đã phải hứng chịu thảm bại dưới chân thành Sơn Hải Quan. Khi Lý Tự Thành bước qua cổng thành Bắc Kinh, có lẽ trong lòng người dân, vùng Quan Trung cổ xưa vẫn là mảnh đất đã sinh ra Tần Hoàng Hán Vũ, cái nôi của những nghiệp bá vĩ đại. Nhưng khi Lý Tự Thành vì quân phí mà tra tấn bức tiền, khi ngọn cờ trên thành Bắc Kinh ba lần đổi chủ, thì cái huyền thoại mang tên Quan Trung cuối cùng cũng như lời sấm Kim Đao kia, tan biến hoàn toàn trong lòng dân chúng.
Ngàn năm trôi qua, cung điện Tần Hán đã hóa thành những cánh đồng Bạch Lộc nguyên rộng lớn, những hoài bão bá vương của đế vương thu nhỏ lại thành ân oán giữa dân làng Bạch Lộc. Dù trời xoay sao dời, nguyệt biến thiên di, nhưng chính từng mảnh Bạch Lộc nguyên ấy đã tạo nên tám trăm dặm Tần Xuyên nơi đất Quan Trung, cũng chính từng ngôi làng Bạch Lộc nhỏ bé kia đã gánh trên vai bao cảnh biên thùy máu chảy thành sông cùng những khúc tiên nhạc phong phiêu khắp chốn của vương triều.
Người Tần vốn không hiếu chiến hơn người Trung Hoa nơi khác, cũng chẳng giỏi canh tác hay trị quốc hơn ai, chỉ có điều mảnh đồng bằng Quan Trung này đã tôi luyện nên con người Tần, tạo nên đế chế Tần vĩ đại mà phù du như áng mây trôi.